Nhắc đến Hà Nội, chúng ta liên tưởng đến những gì cổ kính, nhiều di tích lịch sử, phố phường chật hẹp… con người mang nét văn hoá của đất “kẻ chợ”. Văn hoá ẩm thực là cái thú của rất nhiều khách du lịch mỗi khi đến thăm Hà thành, thưởng thức bánh cuốn Kỳ Đồng là một sở thích của không ít người Hà Nội và khách du lịch. Trước khi tìm hiểu cách làm bánh cũng như cách ăn, chúng ta tìm hiểu nguồn gốc tên Kỳ Đồng bắt nguồn từ đâu. Chắc hẳn sẽ có không ít người từng đặt ra câu hỏi này.
Phố Tống Duy Tân ngày nay được biết đến là phố Ẩm thực trong vòng vài năm trở lại đây. Trước đây thời kỳ trước năm 1964 phố này được đặt theo tiếng Pháp. Sau năm 1964, phố này được đặt là phố Kỳ Đồng. Tại sao lại đặt tên là Kỳ Đồng? Kỳ Đồng là ai mà được đặt tên cho phố này?
Kỳ Đồng (1875 - 1929), quê làng Ngọc Đình, tổng Hạ Lý, huyện Duyên Hà, Tỉnh Hưng Yên cũ (nay là xã Văn Cẩm, huyện Hưng Hà, Tỉnh Thái Bình). Tên thật của ông là Nguyễn Văn Cẩm, ngay từ nhỏ ông tỏ ra là người thông minh, nhanh nhẹn, có trí nhớ kỳ lạ, đặc biệt là cậu biết ứng khẩu rất tài tình những câu đối do người lớn ra.
Năm 8 tuổi, Cẩm được bố dẫn lên tỉnh dự kỳ sát hạch chuẩn bị cho kỳ thi Hương ở Nam Định. Các quan trường thấy Cẩm nhỏ mà đã đi thi, lấy làm lạ liền ra một vế đối, thách Cẩm đối lại:
“Khổng môn truyền đạo tam hiền: Tăng Tử, Tử Tư, Mạnh Tử”
(Truyền đạo của Khổng Tử có ba vị hiền triết là Tăng Tử, Tử Tư và Mạnh Tử)
Vế ra khá lắt léo, dùng tên ba đồ đệ của Khổng Tử, có ba chữ “Tử”, mỗi chữ lại có cách viết khác nhau và mang nghĩa cũng không giống nhau.
Cẩm đã đối lại: “Chu thất khai cơ liệt thánh: Thái Vương, Vương Quý, Văn Vương”.
(Các vị thánh mở cơ nghiệp nhà Chu có Thái Vương, Vương Quý và Văn Vương).
Vế đối của Cẩm dùng ba tên người mở mang cơ nghiệp nhà Chu, có ba chữ Vương, nghĩa và cách viết khác nhau đã đối “chan chát” với vế đối của các quan trường. Mọi người đều hết lời khen ngợi Cẩm.
Kết quả, Nguyễn Văn Cẩm đạt được loại ưu trong cuộc thi. Các quan trong tỉnh lấy làm kinh ngạc, bèn dâng sớ tâu về triều.
Vua Tự Đức đã có chỉ dụ: “Cấp cho trẻ lạ Hưng Yên Nguyễn Văn Kỳ (tức Cẩm), lên 8 tuổi mà thông minh, nhà nghèo, chăm học, mỗi tháng 3 quan tiền, một phương gạo, áo quần mỗi thứ hai cái, mỗi năm cấp một lần”.
Trong bức thư gửi viênCông Sứ Pháp (Viên quan đầu tỉnh người Pháp, dưới thời nước ta bị Pháp đô hộ) ở Thái Bình, đề ngày 2 – 5 – 1897, Nguyễn Văn Cẩm cũng viết: “Có thể ngài sẽ ngạc nhiên vì sao dân chúng biết tôi và tin yêu tôi. Là vì hồi nhỏ tôi khá xuất sắc về Nho học, nên các câu thơ của tôi đôi khi làm các quan rất thích, ngay cả Vua Tự Đức quá cố, người đã ban cho tôi bổng lộc và biệt hiệu Kỳ Đồng”.
Như vậy, theo Nguyễn Văn Cẩm, cái tên Kỳ (Kì) Đồng là do vua Tự Đức ban cho với ý nghĩa là “Đứa trẻ lạ”.
Khi đó phố Kỳ Đồng có rất nhiều hàng quán bán đồ ăn, và số nhà 11 Tống Duy Tân ngày nay, vốn là quán chuyên làm bánh cuốn để bán cho khách gần xa, đặc biệt là những người Hà Thành. Sau này khi quy hoạch và chọn phố này làm phố ẩm thực, thì cái tên Tống Duy Tân cũng được gọi từ đây.
Ngày nay, nhắc đến bánh cuốn Kỳ Đồng là nhắc đến bánh cuốn tại số 11 Tống Duy Tân.
Bánh cuốn được làm từ gạo, hành, nấm hương, mọc nhĩ và thịt lợn.
Thứ gạo được làm để tráng bánh phải là gạo tẻ, ngon và thơm (không dùng gạo nếp vì nếu để lẫn mấy hạt gạo nếp vào là biết ngay, nó làm cho bánh rất dính, không sao tráng được, lại hay bị rách). Mọc nhĩ và nấm hương phải thái nhở và chế biến trước và trộn với thịt lợn…tất cả được chuẩn bị sẵn chờ các thực khách tới thưởng thức. Khi thưởng thức chúng ta nhớ nhắc chủ quán cho một vài giọt tinh dầu cà cuống, nếu thiếu thì coi như mất đi 50% hương vị của bánh cuốn rồi đó.